
09 Phan Thúc Duyện, phường 4, quận Tân Bình
Phan Châu Trinh (1872-1926) hiệu là Tây Hồ, quê ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Phan Châu Trinh là người tiên phong trong khởi xướng chủ trương "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh"; luôn đề cao nghĩa vụ đối với đất nước, ca ngợi chế độ dân chủ, từ bỏ chế độ quân chủ và đi đến chủ nghĩa dân quyền. Năm 1900, ông thi Hương đỗ Cử nhân, năm sau thi Hội đỗ Phó bảng, được bổ nhiệm làm Thừa biện Bộ Lễ trong triều đình Huế. Nhưng chỉ ít lâu sau, năm 1905, do tiếp thu ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản, ông từ quan về liên lạc với các nhà yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đề xướng phong trào Duy Tân và bắt đầu hoạt động khá tích cực ở các tỉnh miền Trung (lập trường học kiểu mới, lập các hội nông, công, thương…) Năm 1906, Phan Châu Trinh sang Nhật gặp Phan Bội Châu, nhưng hai người có ý kiến bất đồng về phương pháp đấu tranh cứu nước. Phan Châu Trinh về nước, khởi xướng phong trào Duy Tân. Năm 1908, ông và các ông bị kết tội tổ chức phong trào chống thuế dấy lên ở Trung Kì. Cùng với nhiều chí sĩ khác, Phan Châu Trinh bị bắt và đầy đi Côn đảo. Sau 3 năm ra tù, Phan Châu Trinh xin sang Pháp với ý định tranh thủ hội Nhân quyền Pháp để đòi chính quyền thực dân ở Đông Dương cải cách chính trị, tôn trọng dân quyền. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), Phan Châu Trinh bị Chính phủ Pháp bắt giam ở ngục Santé 15 tháng. Sau đó, ông tiếp tục sống cùng con trên đất Pháp, phải làm nhiều nghề thủ công một cách khá vất vả để kiếm sống. Đồng thời ông vẫn cố gắng tìm hiểu tình hình chính trị thế giới, tiếp xúc với một số nhà tri thức yêu nước tiến bộ của Việt Nam sống tại Pháp (như Phan Văn Trường), đặc biệt có mối quan hệ mật thiết với Nguyễn Ái Quốc từ những năm 1917-1923. 1921 con ông là Phan Châu Dật qua đời vì lao ruột. Năm 1922, vua Khải Định sang Pháp, ông viết Thất điều trần buộc vua 7 tội lớn và khuyên vua về nước gấp, đừng làm nhục quốc thể. Cũng trong năm này, ông viết bài Tỉnh quốc hồn ca mới. Năm 1925, Phan Châu Trinh trở về nước, tiếp tục hoạt động theo đường lối cũ, kêu gọi dân quyền, dân sinh, dân khí… Ông có 2 buổi diễn thuyết tại Sài Gòn về đề tài: Quân trị và dân trị chủ nghĩa, Đạo đức và luân lí Đông Tây. Sau đó, ông bị ốm nặng, rồi từ trần ngày 14.03.1926 tại Chiêu Nam Lầu và được đem quàn tại Bá Huê lầu, số 54 đường Pellerin, Sài Gòn. Lễ truy điệu, để tang Phan Châu trinh trở thành một phong trào diễn ra khắp cả nước. Một Ủy ban tổ chức lễ quốc táng chí sĩ Phan Châu Trinh gồm nhiều thành viên là các nhân sĩ, trí thức đã được hình thành ngay trong đêm ông qua đời. Hơn 6 vạn người dân đã đến Sài Gòn, không phân biệt chính trị, đảng phái, tôn giáo tham dự, đã đưa linh cữu Phan Châu Trinh đến nghĩa trang của hội Gò Công tương tế lúc 6 giờ sáng ngày 4 tháng 4 năm 1926. Năm 1930, Hội Trung Kỳ Ái Hữu và gia đình đã xây dựng đền thờ Phan Châu Trinh tại đường Gallimard (nay là 23 Nguyễn Huy Tự, phường Đa Kao, quận 1). Năm 1993, đền này được dỡ bỏ, xây lại đền mới, nằm cạnh mộ phần của cụ Phan Châu Trinh ngày nay ở số 9 Phan Thúc Duyện, phường 4, quận Tân Bình.